Vậy “tầm long” là gì? 
Tầm long là phép tìm kiếm long mạch ngoài đất trống, như cụ Tả Ao chỉ 
rõ: “Chẳng qua ra đến ngoài  đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường” 
và được học giả Cao Trung qua hằng chục năm nghiên cứu sách địa lý của 
Tả Ao giải thích rõ đại ý dưới đây: Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong 
cành cây có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua  những dãy đồi núi cao, 
cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi 
đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng
 như hình con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất 
nào đó (gọi là long nhập thủ). Nơi đó có thể hạ huyệt chôn cất, hoặc cải táng mồ mả cha ông để con 
cháu đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý. 
Trước huyệt kết có đất  nổi  lên  cao  che  chắn (gọi là án), hoặc  có 
gò bao quanh kết hình ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa). “Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ 
sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh 
đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là 
thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm 
chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương 
đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long 
cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ 
lăn tăn). Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” 
trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua 
Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. 
Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận 
thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Phát vương trên đất kết Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu 
Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó
 Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào 
tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê
 Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên
 tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong 
“Đại Việt sử ký toàn thư”. Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn
 sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên 
buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô 
cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà 
phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương 
giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải 
Thanh, đó là Trần Hấp. Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần 
Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ 
Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần 
Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính 
nể, thường gọi là “thầy Phùng”. Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà 
tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng 
tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này 
là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ 
sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần rồi 
chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng
 mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác. Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái 
Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía
 sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt
 trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù 
lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu 
đất hậu sinh phát đế”. Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải 
táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể
 dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy
 khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể 
cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng
 đúng mệnh số nữa. Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên 
quan đến câu chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu 
(cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy
 tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời 
chuyển đến gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi. Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần
 cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là
 người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên 
trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết. Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm 
(tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia 
đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần
 Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với 
Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố 
tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net) 


