
 
                        VIII.- Dị 
            biệt chính, Nam phái
            1.- Sự khác biệt về số sao
            
            1.1. Bộ Tử-vi chính nghĩa
                 Được coi như là chính thư. 
            Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, 
            đó là:
            1.1.1. Các chòm.
            Tử-vi: 6 sao là Thiên-cơ, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-đồng, 
            Liêm-trinh.
            Thiên-phủ: 8 sao là Thiên-phủ, Thái-âm, Tham-lang, Cự-môn, 
            Thiên-tướng, Thiên-lương, Thất-sát, Phá-quân.
            Thái-tuế: 5 sao là Thái-tuế, Tang-môn, Điếu-khách, 
            Bạch-hổ, Quan-phù.
            Lộc-tồn: 17 sao là Lộc-tồn, Kình-dương, Đà-la, Quốc-ấn, 
            Đường-phù, Bác-sĩ, Lực-sĩ, Thanh-long, Tiểu-hao, Tướng-quân, 
            Tấu-thư, Phi-liêm, Hỉ-thần, Bệnh-phù, Đại-hao, Phụcbinh, 
            Quan-phủ.
            Trường-sinh: 12 sao là Trường-sinh, Mộc-dục, Quan-đới, 
            Lâm-quan, Đế-vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai 
            Dưỡng.
            1.1.2. Các sao an theo tháng: 7 sao Tả-phụ, Hữu-bật, Tam-thai, 
            Bát-tọa, Thiên-hình, Thiên-riêu, Đẩu-quân.
            1.1.3. Các sao an theo giờ: 8 sao Văn-xương, Văn-khúc, Ấn-quang, 
            Thiên-quý, Thai-phụ, Phong-cáo, Thiên-không, Địa-kiếp.
            1.1.3. Tứ trợ tinh: 4 sao là Hóa-quyền, Hóa-lộc, Hóa-khoa, 
            Hóa-Kî.
            1.1.4. Các sao an theo chi: 17 sao là Long-trì, Phượng-các, 
            thiên-đức, Nguyệt-đức, Hồngloan, Đào-hoa, Thiên-hỉ, 
            Thiên-mã, Hoa-cái, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, 
            Hỏatinh, Linh-tinh, Thiên-khốc, Thiên-hư.
            1.1.5. Các sao an theo can: 5 sao là Lưu-hà, Thiên-khôi, Thiên-việt, 
            Tuần-không, Triệtkhông.
            1.1.6. Các sao cố định: 4 sao là Thiên-thương, Thiên-sứ, 
            Thiên-la, Địa-võng.
            
            1.2.Bộ Triệu Thị Minh Thuyết 
            Tử-vi kinh
                  Đều ghi có 93 sao, giống 
            như bộ Tử-vi chính nghĩa.
            
            1.3.Bộ Tử-vi đại toàn
                 Ghi rõ ràng rằng trong lá số 
            phải có 93 sao như Hi-Di tiên sinh, kỳ dư an thiếu, đủ 
            hay khác đi đều là tạp thư, ma thư của bọn đạo sĩ 
            bịa đặt để lừa nhau, còn giả đạo đức, tỏ ra là 
            người bác học, song chẳng qua là phường lưu manh!
            
            1.4.Bộ Tử-vi Đẩu-số toàn 
            thư 
                 Nói về số sao rất lờ mờ. 
            Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống 
            như ba bộ trên. Duy thiếu các sao sau đây: Đào-hoa, 
            Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Lưu-hà. Nhưng khi 
            đọc bài phú nói về các sao, thì lại thấy nói tới 
            Đào-hoa, Ân-quang, Thiên-quý v.v...
            
            1.5.Bộ Đông-a di sự
                  Thấy ghi đúng 93 sao như bộ 
            trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy 
            thiếu các sao: Bác-sĩ, Thiên-la, Địa-võng, Thiên-thương, 
            Thiên-sứ. Có lẽ các Tử-vi gia đời Trần quan niệm rằng 
            các sao trên đều ở vị trí cố định, nên không cần 
            an vào như sao Bác-sĩ bao giờ cũng đóng chung với sao Lộc-tồn. 
            Sao Thiên-thương bao giờ cũng ở cung Nô, sao Thiên-sứ 
            bao giờ cũng ở cung Tật-ách và sao Thiên-la bao giờ cũng 
            ở cung Thìn cũng như sao Địa-võng bao giờ cũng ở 
            cung Tuất.
            Trên đây là các bộ chính thư, dưới đây là các bộ 
            tạp thư.
            
            1.6.Bộ Tử-vi Âm-dương chính 
            nghĩa Bắc-tông
                 Thấy ghi đến 104 sao. Các sao 
            cũng như giống như chính thư về số sao cũng như cách 
            an sao, song thêm các sao sau đây: Thiên-tài, Thiên-thọ, 
            Thiên-trù, Thiên-y, Thiên-giải, Địa giải, Giải-thần, 
            Thiên-lộc, Lưu-niên văn tinh, Thiên-quan quý nhân, Thiên-phúc 
            quý nhân.
            
            1.7.Bộ Tử-vi âm-dương chính 
            nghĩa Nam-tông 
                  Ghi tới 128 sao, các sao cũng giống 
            như sao Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao là Thái-túc, Niên-xá, 
            Thiên-khôi, Nguyệt-khôi, Niên-thổ-khúc, Nguyệt-thổ-khúc, 
            Thiên-thương (Nghĩa là kho lúa khác với Thiên-thương ở 
            cung Nô, như vậy trong lá số có hai sao Thiên-thương). 
            Thiên-phủ-khố, Thiên tiễn, Hồng-diệm, Địa-không, 
            Phù-trầm, Sát-nhận. Vòng Thái-tuế được thêm vào 7 
            sao nữa cho đủ 12 sao, đó là các sao Thiếu-dương, Thiếu-âm, 
            Tử-phù, Tuế-phá, Long-đức, Phúc đức, Trực-phù, Tứ-phi-tinh, 
            Thiên-trượng, Thiên-dị, Mao-đầu, thiên-nhận.
            
            1.8.Bộ Tử-vi thiển thuyết gồm 
            128 sao
                 Giống như bộ Nam-tông nhưng thêm 
            vào 13 sao nữa rất quái dị, không có trong thiên-văn mà 
            chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu 
            rắn. Đó là các sao: Nam-cực, Đông-đẩu tinh-quân, 
            Bắc-đẩu tinh-quân, Nam-đẩu tinh-quân, Cửu-thiên huyền 
            nữ, Dao-trì kim mẩu, Vũ-tinh, Lôi-tinh, Thiên-vương tinh, 
            Địa-tạng tinh, Thái-bạch kim tinh.
            
            1.9.Lịch số Tử-vi toàn thư
                 Số sao cũng giống như bộ Tử-vi 
            thiển thuyết song dạy an sao ngược với các bộ trên. 
            Như sao Trường-sinh không những chỉ an ở Dần, Thân, 
            Tî, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng 
            Tử-vi an xuôi, vòng Thiên-phủ an ngược. Số sao cũng có 
            128 mà thôi.
            
            2.- Sự khác biệt về sao lưu 
            niên
            2.1.Chính thư
                 Các sao lưu niên đều an giống 
            nhau, số sao cũng giống nhau:
            -Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. 
            (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, 
            Đà thôi)
            - Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư 
            và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 
            sao.
            
            2.2.Tạp thư
                 Vẫn gồm các sao như bộ chính 
            thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, 
            Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, 
            Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.
            
            3.- Sự khác biệt về đại hạn
            Chính phái an đại hạn như sau:
            - Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung 
            Mệnh.
            - Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc 
            huynh đệ.
            
            Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi 
            thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại 
            hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu.
            
            - Nhưng Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung 
            Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc 
            Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số 
            cục” không có đại hạn.
            Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm 
            nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho 
            đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc 
            phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. 
            Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài 
            phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì 
            an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam 
            phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò 
            dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. 
            Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi 
            học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách 
            xử dụng phú đoán được.
            
                 Tỷ dụ: Chính phái 
            đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán:
            Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch 
            Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Nghĩa 
            là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất 
            nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp 
            nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú 
            trên không đúng được:
            
            - Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp 
            đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không 
            không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái 
            và không
            có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, 
            đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở 
            Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không 
            gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, 
            Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng 
            tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không 
            đúng:
            
            - Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không 
            đóng ở Thìn.
            Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm 
            nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ 
            gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi.
            Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị 
            yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học 
            mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục 
            bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng 
            tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không 
            nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú 
            của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ 
            lộn tùng phèo.
            
            4. Sự khác biệt về an sao
                 Trong 93 tinh đẩu không có sự 
            khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra 
            an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái 
            gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả 
            Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
            Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau 
            có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở 
            Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ 
            hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, 
            Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, 
            Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa 
            đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng.
            
            5. Đối với sách Tử-vi hiện 
            tại
                 Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn 
            thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với 
            chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân 
            tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên 
            Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức 
            Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng 
            tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính 
            phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, 
            hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi 
            có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy 
            trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông 
            còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi.
            
                 Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả 
            Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. 
            Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm 
            kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não 
            ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không 
            tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền 
            với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một 
            lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ 
            ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý.
        
            Quay về 
                  |Trở về đầu| Xem 
                  tiếp 
                  
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (XemTuong.net) 


