
 
                        II.- Nguồn 
            gốc khoa Tử-vi Quay về   | Trở 
              về đầu | Xem 
            tiếp 
                  Về nguồn gốc khoa Tử-vi thì 
            bộ Tử-vi kinh tức Tử-vi chính nghĩa, phần Hy Di tiên 
            sinh liệt truyện viết :
            
                 “Tiên sinh làu thông Dịch-lý, 
            Thiên-văn, Hình-tượng, Lịch-số, Địa-lý. Nhân thấy 
            các khoa đều có uyên nguyên với số mạng nhân sinh, do 
            vậy khải ngộ, soạn ra bộ Tử-vi kinh truyền cho đức 
            Thái-tổ nhà ta.” Vì vậy nguồn gốc khoa Tử-vi, có 
            thể kết luận rằng, đặt cơ sở trên :
                 - Học thuyết Âm-dương ngũ hành 
            của Dịch-lý.
                 - Từ Thiên-văn học, với những 
            biến chuyển của tinh đẩu.
                 - Từ Hình tượng học, tức khoa nghiên 
            cứu về hình dáng vũ trụ, con người và thú vật.
                 - Từ Lịch-số, tức khoa nghiên cứu 
            từ Thiên-văn, để tính sự tuần hoàn vũ trụ, tính ngày, 
            tháng, năm.
                - Địa lý, tức Phong-thủy, nghiên 
            cứu về con người tương ứng với địa phương hướng 
            nhà khí hậu v.v....
            
            1.- Tiểu sử Hi-Di tiên sinh
                 Tiên sinh họ Trần húy Đoàn 
            tự Hy-Di, người đất Hoa-sơn, ngày nay về phía Nam huyện 
            Hoa-âm tỉnh Thiểm-Tây. Khi ra đời tiên sinh bị đẻ non 
            tháng, nên mãi hai năm mới biết đi, thuở nhỏ thường 
            đau yếu liên miên. Tiên sinh học văn không thông, học 
            võ không đủ sức, thường suốt ngày theo phụ thân ngao 
            du khắp non cùng thủy tận.
            
                 Thân phụ tiên sinh là một nhà 
            Thiên-văn, Lịch-số đại tài đương thời. Về năm sinh 
            của tiên sinh, không một thư tịch nào chép. Nhưng căn 
            cứ vào bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, khi tiên 
            sinh yết kiến Tống Thái-tổ Triệu Khuông Dẫn vào niên 
            hiệu Càn-đức nguyên niên có nói : « Ngô 
            kim nhật thất thập hữu dư », nghĩa là, 
            tôi năm nay trên 70 tuổi.
            Vậy có thể tiên sinh ra đời vào khoảng 888-893 tức niên 
            hiệu Vạn-đức nguyên niên đời Đường Huy-Tông đến 
            niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông. 
            Tiên sinh bắt đầu học Thiên-văn năm 8 tuổi. Bộ Triệu 
            Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh thuật :
            
                  " Tiên 
            sinh tám tuổi mà còn thơ dại, lúc nào cũng ngồi trong 
            lòng thân phụ. Một hôm thân phụ tiên sinh phải tính 
            ngày giờ mưa bão trong tháng, bị tiên sinh quấy rầy, 
            mới dắt tiên sinh ra sân, chỉ lên bầu trời đầy sao 
            mà bảo :
                  - Con có thấy sao Tử-vi kia không 
            ?
                  Đáp :
                  - Thấy.
            Lại chỉ lên sao Thiên-phủ mà hỏi :
                 - Con có thấy sao Thiên-phủ kia 
            không ?
                 Đáp :
                  -Thấy.
                 - Vậy con hãy đếm xem những 
            sao đi theo sao Tử-vi và Thiên-phủ là bao nhiêu ?
            
                 Thân phụ tiên sinh tưởng rằng 
            tiên sinh có đếm xong cũng phải trên nửa giờ. Không 
            ngờ ông vừa vào nhà tiên sinh đã chạy vào thưa :
            - Con đếm hết rồi. Đi theo Tử-vi có năm sao, như 
            vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi theo sao Thiên-phủ có 
            bảy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao."
            
            Từ đấy tiên sinh được thân phụ hết sức truyền khoa 
            Thiên-văn và Lịch-số.
            
             2.- Truyền cho vua Tống
                  Giai thoại kỳ thú mà hầu hết 
            các nhà nghiên cứu Tử-vi đều biết, đó là Hi-Di tiên 
            sinh đã dùng khoa Thiên-văn và Tử-vi đoán trước được 
            hai đứa trẻ nghèo đói, sau đều trở thành vua. Bộ Tử-vi 
            chính nghĩa phần Hi-Di liệt truyện đã kể giai thoại 
            kỳ thú đó như sau :
            
                 “Một 
            hôm tiên sinh dẫn đệ tử ra sân xem Thiên-văn, chợt kêu 
            lên rằng :
                 - Kìa quaí lạ không ?
            Đệ tử xúm lại nhìn theo tay tiên sinh chỉ thì thấy 
            sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận của sao Phá-quân 
            và Hóa-kỵ, mà ánh sáng chiếu xuống núi Hoa-sơn. Tiên 
            sinh noí :
                 - Tử-vi, Thiên-phủ là đế-tượng, 
            tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước, Thiên-phủ 
            bao giờ cũng theo sau. Đây tức là anh em một gia đình 
            nào đó, đang buổi hàn vi, sau sẽ làm nên sự nghiệp 
            vẻ vang, vị tới đế vương. Phá-quân là hao-tinh chủ 
            nghèo đói, Hóa-kỵ chủ bần hàn, kêu xin. Phá ngộ Kỵ 
            thì nghèo đói phải đi ăn mày. Tử, Phủ gặp Phá, Kỵ 
            tức hai vị Thiên-tử chưa gặp thời phải đi ăn xin. 
            Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, thì hai vị Thiên-sử sẽ 
            qua đất Hoa-sơn ăn xin. Vậy ngày mai các người theo ta 
            xuống núi, giúp cho vị anh hùng vị ngộ, đang gặp lúc 
            cùng khó. Đệ tử thưa :
            
                  - Đệ tử nghĩ, nhân lúc 
            thiên-tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ, để 
            mai đây có dịp đòi nợ cứu giúp dân nghèo. 
            
                 Tiên sinh đồng ý. Hôm sau thầy 
            trò xuống chân núi thấy một đoàn người chạy loạn 
            đi qua. Tiên sinh để ý đến một thiếu phụ gánh hai 
            chiếc thúng, trong mỗi thúng có một đứa trẻ khôi ngô 
            dung quang khác thường. Tiên sinh biết hai đứa trẻ này 
            ứng vào sao Tử, Phủ trên trời đây. Mới hỏi thiếu 
            phụ :
                 - Bà ơi ! Bà có mệt lắm không 
            ? Bà gánh hai vị Thiên-tử đi đâu vậy ?
                 Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa 
            :
                 - Con tôi đó, đứa lớn tên Triệu 
            Khuông Dẫn, đứa nhỏ tên Triệu Khuông Nghĩa. Từ sáng 
            đến giờ chúng đói không có gì ăn. Tiên sinh bố thí 
            cho chút đồ ăn được không ?
                 Tiên sinh đáp :
                 - Tôi xem thiên văn thấy dung quang 
            hai con bà khác phàm. Bà có nhớ ngày giờ sanh của chúng 
            không ?
            
                 Thiếu phụ cho ngày giờ năm sinh 
            của hai con. Tiên sinh tính số Tử-vi, thấy cách của Khuông 
            Dẫn là Tử, Phủ, Vũ, Tướng được Tả, Hữu, Khoa, Quyền, 
            Lộc củng chiếu. Ngặt đại hạn đang gặp Kiếp, Kỵ 
            nên nghèo khó. Số của Khuông Nghĩa là Thiên-phủ lâm 
            Tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền đại hạn cũng đang 
            gặp Kiếp, Kỵ nên nghèo khó. Tiên sinh nói với học trò 
            :
                 - Hai đứa trẻ này là chân mạng 
            đế vương, khi đại hạn đi đến gặp Khôi, Việt, Xương, 
            Khúc, là lúc thành đại nghiệp đấy. Ta phải giúp đỡ 
            mới được, hầu mua lấy cảm tình, lúc thiên tử gặp 
            thời, có thể nhân đó giúp dân vậy.
                 Tiên sinh nói với thiếu phụ 
            :
                 - Tôi tính số thấy hai con bà 
            sau đều làm vua. Khi đã làm vua rồi, thì tất cả giang 
            sơn vạn dặm đều của con bà cả. Vậy bà bán cho tôi 
            giải núi Hoa-sơn này lấy tiền mà tiêu.
            
                 Thiếu phụ tưởng ông đạo sĩ 
            điên khùng mới mua núi. Bà đồng ý bán. Bởi bà không 
            biết chữ, nên xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, 
            nhét trong một ống đũa, coi như văn tự trao cho Hy-Di tiên 
            sinh và nhận mười nén vàng.
            
                 Năm 960, Triệu Khuông Dẫn thống 
            nhất giang sơn, lên ngôi vua lập ra nhà Tống, sau là Tống 
            Thái-Tổ. Niên hiệu Càn-đức nguyên niên (963), quan trấn 
            thủ vùng Hoa-sơn dâng biểu về triều rằng: Có một đạo 
            sĩ tên Trần Đoàn, tự Hy-Di bao dưỡng dân chúng không 
            nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng : Hoa-sơn là đất riêng 
            của ông, đã được nhà vua bán cho rồi. Tống Thái-tổ 
            không nhớ chuyện cũ, nổi giận, sai bắt Hy-Di tiên sinh 
            vào triều trị tội. Nhưng quan địa phương rất kính 
            trọng tiên sinh, không giám trói, còn đưa lừa cho tiên 
            sinh cỡi để lai kinh. Tiên sinh được giải vào triều 
            kiến. Thái-tổ hỏi :
                 - Đạo sĩ cũng phải tuân 
            theo phép nước chứ ? Hà cớ phao ngôn nói rằng đã mua 
            đất của triều đình ?
                 Tiên sinh đáp :
                  - Năm nay tôi đã trên 70 tuổi 
            đâu dám nói dối. Luật lệ của bệ hạ là : Đời 
            cha mẹ vay nợ, thì đời con phải trả. trước đây Thái-hậu 
            qua Hoa-sơn, có bán cho bần đạo toàn vùng này lấy mười 
            nén vàng. Văn tự còn đây.
                 Tiên sinh xuất trình ống đũa 
            và vạt áo. Thái-tổ truyền đem vào hậu cung hỏi Thái 
            hậu. Thái-hậu nhớ chuyện cũ vội kêu lên :
                  - Vị thần tiên ở núi Hoa-sơn 
            đây mà, người đã cứu nạn cho nhà ta xưa đây.
                 Thái-hậu kể chuyện xưa. Thái-tổ 
            và triều thần kinh sợ về tài tiên tri của tiên sinh, 
            vội tạ lỗi, lưu tiên sinh lại kinh, kính như bậc thầy. 
            Tống Thái-tổ hỏi tiên sinh về khoa Tử vi, tiên sinh rút 
            ra trong bọc tập sách nhỏ đề Tử-vi chính nghĩa trao 
            cho Thái-tổ mà tâu rằng :
                 - Đây là tất cả những tinh 
            nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không phải là người 
            đặt ra khoa này. Nhân người trước đã nói về Tử-vi, 
            bần đạo nhận thấy Dịch-lý, Hình tượng Thiên văn, 
            Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới 
            tước bỏ những rườm rà của người xưa, họp thành 
            khoa Tử-vi mà thần viết trong tập này. Với khoa Tử-vi, 
            bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào 
            tốt, thời nào xấu mà mưu đại sự. Đó là học 
            tới bậc sơ đẳng. Còn học uyên thâm hơn, có thể nhân 
            số mạng xấu, dùng người nào thì cứu được kẻ bị 
            nạn, và cứu như thế nào ? Thấy kẻ ác thì dùng người 
            nào, cách nào thì trị được, đó là học tới trung đẳng. 
            Còn học tới chỗ uyên thâm cùng cực, có thể làm đảo 
            lộn cả thiên hạ, nắm thiên hạ trong bàn tay. Nhưng bần 
            đạo kính dâng bệ hạ một câu, khi dùng tập sách này, 
            đó là :
                  Chữ Nhân, 
            đừng nên dùng vào những việc ác độc, tổn âm đức. 
            
            
                 Tiên sinh được các quan xin coi 
            Tử-vi. Họ chỉ việc biên ngày sinh, tháng sinh, năm sinh 
            và giờ sinh, tiên sinh sẽ kêu ra vị đó đang giữ chức 
            vị gì trong triều, cùng sự lập thân ra sao, cuối cùng 
            sự nghiệp sẽ kết thúc như thế nào. Triều thần không 
            ai mà không kính phục.
            
            3.- Cái chết của Hy-Di Sử
                 Sách không ghi tiên sinh ra đời 
            năm nào, mà cái chết của tiên sinh cũng rất mơ hồ. 
            Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh viết :
                 « Niên hiệu Khai-bảo 
            thứ ba (972), Thái-tổ sai sứ đến Hoa-sơn thỉnh tiên 
            sinh, thì đệ tử cáo rằng tiên sinh ngao du sơn thủy đã 
            ba năm không thấy trở về.» 
            
                  Sau trên mười năm không thấy 
            tiên sinh trở về, đệ tử tiên sinh cho rằng thầy đã 
            quy tiên. Họ họp nhau bầu lấy người chưởng môn. Nhưng 
            khi sinh thời tiên sinh gặp ai dạy người đó, trình độ 
            học trò không đều nhau, mà họ không biết nhau nữa. 
            Cuối cùng vì trong mười năm xa sư phụ, mạnh ai nấy 
            nghiên cứu thành ra khoa Tử-vi có nhiều dị biệt. Các 
            đệ tử của tiên sinh tự ý thu đệ tử, truyền dạy, 
            người có căn cơ thì dạy hết, người không có căn cơ 
            thì dạy ít, thành ra khoa Tử-vi trở thành một khoa bí 
            hiểm của riêng từng nhà, nhiều nhà còn giữ để làm 
            kế sinh nhai, do vậy mới có nhiều khác biệt nhau.
        
           
            
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (XemTuong.net) 


