Ý nghĩa và phong tục     
 Xưa Tết Trung Thu ngoài cỗ cúng gia tiên còn có cỗ không cúng mà dành 
cho trẻ trong nhà, còn gọi đó là cỗ "trông trăng." Sản vật dùng trong cỗ
 Trung Thu ngày nay rất phong phú, đa dạng. Còn ngày xưa, cỗ Trung Thu 
đơn giản, có tính chất "cây nhà, lá vườn", vì hầu hết là sản phẩm của 
từng địa phương như bưởi, hồng, mãng cầu, chuối, mía... Có gia đình cho 
thêm kẹo bánh. Sang hơn thì có cả cốm Vòng, bánh nướng, bánh dẻo. Sau 
này, bánh nướng, bánh dẻo được dùng một cách rất phổ biến bới nó được 
mệnh danh là bánh Trung Thu.     Hát trống quân xưa    
 Tết Trung Thu ở miền bắc ngày xưa còn có tục hát trống quân. Đôi bên 
nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc 
dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng
 thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) 
hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối 
đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những
 câu đố hiểm hóc.     Múa lân – múa rồng xưa    
 Vào dịp Tết Trung Thu xưa ở nước ta có tục múa lân. Người ta thường múa
 lân vào hai đêm 14 và 15. Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc
 đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống.
 Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo 
nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ 
sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Đám múa lân đi trước, người 
lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có 
treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.     
 Trẻ em thì thường rủ nhau múa lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để 
mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn 
gọi các em thưởng cho tiền    
 Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa 
xưa, đã được in trên mặt trống đồng. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 
thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành
 Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê
 - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa.
 Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong 
Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở á Đông người ta đã coi 
trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt 
Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng).   
 
 Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần 
nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại 
đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống 
vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên
 dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn
 vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái 
giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành 
hôn.    
 Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã 
xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội 
cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.     Mua sắm và chuẩn bị    
 Từ đầu tháng Tám, các hàng bán đồ Trung Thu trên thị trường đã bày bán 
la liệt, các bà, các chị rủ nhau đi chợ sắm Tết cho con em mình. Gặp thứ
 nào thì mua thức ấy, còn thiếu thì dành phiên chợ sau cho đến tận 13, 
14 âm lịch. Mua cỗ Trung Thu nhưng các bà mẹ cũng không quên mua đồ chơi
 cho trẻ. Nào tiến sỹ giấy, nào đèn ông sao, trống bỏi, đầu lân, mặt nạ,
 con rối, tò he... Nếu không mua được đủ thì ít nhất cũng phải mua được 
ông tiến sĩ hoặc chiếc lồng đèn ông sao. Nhà giàu còn làm cả đèn kéo 
quân. Đồ chơi từ năm trước có thể đem sửa lại cho trẻ. Nhiều em tự sửa 
sang lại đồ chơi của mình. Không khí chuẩn bị tết Trung Thu nhộn nhịp, 
vui vẻ, cuốn hút cả n gười lớn, trẻ con trong xóm ngoài làng     Thi cỗ và thi đèn Trung Thu    
 Ngày Tết Trung Thu, từ sáng sớm, mọi nhà bắt đầu làm bánh tẻ, bánh đúc 
là chủ yếu, còn nếu gói bánh chưng, bánh gai, thì làm từ ngày 14 âm 
lịch. Các bà nội trợ đun nấu sửa soạn cúng gia tiên. Cỗ Trung Thu mới 
được bày biện. Địa điểm bày cỗ thường là ở sân nhà. Cũng có nơi đặt ở 
giữa vườn, miễn là có ánh trăng chiếu tới để con trẻ ngồi phá cỗ. Đầu 
mâm cỗ trông trăng thường là ông tiến sĩ giấy. Có nơi còn đặt 2 ông 
phỗng ngồi hầu 2 bên. Một quả bưởi tươi nguyên đặt chính giữa, xung 
quanh là các loại bánh kẹo và trái cây. Có khi mâm cỗ quá đầy phải đặt 
thêm ở bên ngoài mâm. Mỗi nhà đều có vài xâu hạt bưởi khô để trẻ thắp 
chơi trong lúc phá cỗ. Như có sự phân công tự nhiên, việc sắm cỗ cho trẻ
 thường là nữ giới. Còn việc bày cỗ thường là đàn ông. Có nhà cẩn thận 
hơn, cha mẹ tập cho con bày cỗ, hướng dẫn cách sắp xếp cho đẹp để năm 
sau trẻ có thể tự làm lấy. Tất cả còn nguyên đến lúc phá cỗ. Trăng lên 
dần, trẻ cầm đèn đội đầu sư tử, khoác mặt nạ, vác trống bỏi rủ nhau đi 
xem đội múa lân của làng đến tận khuya mới về nhà phá cỗ.    
 Người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy 
múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi 
làm bánh. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn.
 Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có 
ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa 
quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm
 cỗ lúc đã khuya.       “Phá cỗ Trung Thu”    
 Phá cỗ là chia bánh trái, hoa quả đã bày trong mâm cổ Tết Trung thu cho
 trẻ ăn. Phá cỗ không có giờ quy định. khi trăng đã lên cao, ánh trăng 
chiếu sáng khắp nơi, trẻ nhà nào đã về đông đủ thì nhà ấy cho trẻ phá 
cỗ. Không kể những nhà đông con mà ngay cả những nhà hiếm con hiếm cháu,
 đều được quan tâm đặc biệt. Không khí phá cỗ rất vui. Cả nhà cùng quây 
quần xung quanh mâm cỗ với lũ trẻ. Trước khi phá cỗ, người lớn thường 
hướng dẫn cho con cái chia các vật phẩm trong mâm cỗ để ăn như bổ bưởi, 
cắt bánh, róc mía...     
 Tục phá cỗ trong Tết Trung Thu ở nông thôn ngày xưa chính là cơ hội 
chăm sóc trẻ em, giúp chúng được hưởng thụ các sản vật còn tươi nguyên, 
được chọn ăn tùy sở thích, được vui đùa phá cỗ trông trăng. Tục bày cỗ, 
phá cỗ trông trăng là thể hiện của sự quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ em,
 cả vật chất lẫn tinh thần một cách cụ thể, tinh tế, sinh động và độc 
đáo của người Việt Nam. Hình ảnh ông Tiến Sĩ Giấy, chiếc đèn ông sao, 
con rối múa gậy không chỉ là trò chơi đơn thuần, mà thông qua đó người 
nông dân còn gửi gắm những ước mơ và niềm tin, mong con cháu học giỏi, 
mai sau sớm đỗ đạt. Đó cũng là sự thể hiện tinh thần hiếu học, tinh thần
 thượng võ, ý thức khuyến học khuyến tài của nhân dân ta…
Nguồn Sưu tầm
                     
                    
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net) 


