|
1885. |
Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình. |
1890. |
Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:
Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng, |
1895. |
Đánh
liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
Diện tiền trình lại Tiểu thư,
Thoắt xem dường cũng ngẩn ngơ chút tình. |
1900. |
Liền
tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà
vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên, |
1905. |
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa. |
1910. |
Tiểu
thư rằng: Ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa
không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan Âm các vườn ta, (*) |
1915. |
Có
cây trăm thước, có hoa bốn mùa (*).
Có cổ thụ, có sơn hồ, (*)
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
Tưng bừng trời mới bình minh (*),
Hương hoa, ngũ
cúng, sắm sanh lễ thường. |
1920. |
Đưa
nàng đến trước Phật đường,
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấy cà
sa, (*)
Pháp
danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya tính đủ dầu đèn, |
1925. |
Xuân,
Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi
hồng. (*)
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi (*). |
1930. |
Phật
tiền thảm lấp sầu vùi (*),
Ngày pho thủ tư, đêm nồi tâm
hương. (*)
Cho hay giọt nước cành dương (*),
Lửa
lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thiền, |
1935. |
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
Quan phòng, then nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san. |
1940. |
Những là ngậm thở nuốt than,
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. |
|
|
|
|